Chủ Nhật, 11 tháng 1, 2015

Xu hướng du lịch đền chùa cổ của người Hà Nội


Về xu hướng mới được gọi là “trùng tu thích nghi”. Trùng tu thích nghi tức là tập trung nhiều vào cơ sở hạ tầng, đường xá không gian xung quanh di tích nhiều hơn là tập trung vào chính di tích. Đây là điều cũng đáng để bàn bởi trùng tu thích nghi là trùng tu phần xác mà không trùng tu phần hồn, khiến cho công trình giống như một người lớn nhưng có bộ não của một em bé lên 3. Như vậy, công trình này có to lớn nhưng không có chiều sâu. Trong ngắn hạn, trùng tu thích nghi đáp ứng được nhu cầu đầu tư, thỏa mãn đòi hỏi phải có một nơi sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo. Nhưng về lâu dài, trùng tu thích nghi sẽ bị mất đi ý nghĩa bởi sẽ khiến công trình bị lai tạp và vẫn luôn thiếu đi cái hồn của chúng.


Việc tu bổ các công trình tôn giáo tín ngưỡng hiện nay cũng đang được thưc hiện.


Không gian sống của người xưa là không gian tâm linh: Trong nhà có bàn thờ, quanh năm cúng giỗ ông bà cha mẹ …các bậc tiền bối vẫn hiện hữu trong đời sống gia đình, sáng chiều có tiếng chuông báo thức, báo ngủ, quanh năm có tế lễ, việc họ, việc làng, lễ hội…Con người hằng ngày không có cảm giác thiếu sinh hoạt tâm linh.


Không gian sống ngày nay (đặc biệt ở các đô thị mới) không còn các yếu tố tâm linh cũ nữa. Nhưng con người lại không thể sống không có sinh hoạt tâm linh. Xã hội càng công nghiệp hoá, càng tự động hoá con người càng đòi hỏi sinh hoạt tâm linh, con người cảm thấy bị mất mình khát khao muốn tìm lại cái mình đã mất.




Xu hướng du lịch đền chùa cổ của người Hà Nội

Thứ Bảy, 10 tháng 1, 2015

Xu hướng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội


 Theo dự báo của nhiều nhà kinh tế thế giới thì hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu hiện nay sẽ còn kéo dài sang quý I và II năm 2009 và khả năng hồi phục có thể được chỉ từ 6 tháng cuối năm, vì vậy lưu lượng khách đi du lịch thế giới nói chung và đến Việt Nam nói riêng cũng sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng và theo xu hướng giảm xuống cho đến khi nền kinh tế thế giới phục hồi trở lại. Đặc biệt, đối với dòng khách đến từ các nền kinh tế lớn nằm trong tâm xoáy của cơn bão tài chính như Mỹ, các thị trường châu Âu, Đông Bắc Á và châu Đại Dương sẽ tiếp tục giảm mạnh trong các tháng đầu năm 2009. Tuy nhiên, du khách đến từ các thị trường láng giềng gần như Trung Quốc, các nước ASEAN như Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Lào, Campuchia… một mặt do vị trí địa lý gần và mặt khác, do không nằm vào vùng tâm xoáy của bão tài chính nên du khách đến Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, nhưng tốc độ sẽ không còn cao như các năm trước đây. Từ đó, có thể dự báo tổng số khách quốc tế đến Việt Nam trong những tháng đầu năm 2009 sẽ tiếp tục theo xu hướng giảm so với cùng kỳ 2008, nhưng mức độ giảm có thể ít hơn các tháng cuối năm 2008; từ quý III/2009 trở đi lưu lượng khách đi du lịch thế giới và đến Việt Nam có khả năng sẽ được hồi phục và tăng trở lại.          


Số lượng và cơ cấu khách du lịch đền chùa ở Hà Nội cũng chịu ảnh hưởng của số lượng và cơ cấu của khách du lịch thăm quan trên cả nước. Có điều cần phải đề cập là lượng khách du lịch đền chùa ở Hà Nội ngày càng tăng lên nhanh chóng và đa dạng về cơ cấu. Khách bao gồm nhiều thành phần, nhiều lứa tuổi… Điều này thể hiện, loại hình du lịch đền chùa đang ngày càng được quan tâm với phạm vi toàn xã hội.




Xu hướng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội

Thứ Sáu, 9 tháng 1, 2015

Sự phong phú của lễ hội Việt Nam


Sự phong phú của lễ hội ở Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc nhưng cũng vừa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.


Tuy nhiên,du lịch đền chùa hiện nay gặp phải rất nhiều vấn đề tiêu cực. Đó là do cơ sở vật chất, quy hoạch lễ hội, hay cả vì ý thức của những người tham gia lễ hội…


Vì hầu hết những ngôi chùa đều đã được xây dựng từ rất lâu nên đã dần bị xuống cấp và cần được tu bổ, nhưng trong quá trình tu bổ các nhà quản lý đã không chú trọng đến những kiểu cấu trúc đặc trưng của ngôi chùa mà chỉ tiến hành cải tạo những phần hư hỏng nên đã đánh mất đi những dấu ấn về kiến trúc và vẻ đẹp cổ kính của những nôi chùa hàng ngàn năm tuổi. Ở một số ngôi chùa còn xảy ra tình trạng là người ta tiến hành xây dựng những ngôi chùa giả bên cạnh những ngôi chùa hàng ngàn năm nhằm thu tiền du khách, điều này đã làm ảnh hưởng xấu đến những điểm đến du lịch tín ngưỡng này.


Công tác quản lý vẫn còn nhiều vấn đề, khi mà những người quản lý dường như đã không thể kiểm soát hoặc bỏ ngơ cho những hộ kinh doanh và những người dân địa phương tự ý trong việc trèo kéo khách thăm quan, tăng giá những mặt hàng thiết yếu. Điều này cũng sẽ gây những ảnh hưởng rất xấu đến cảnh quan của những ngôi chùa.


Ngoài ra phải kể đến ý thức người đi lễ chùa ngày càng kém đi. Không ít lễ hội – diễn ra từ Bắc chí Nam đang bị “biến tướng”, đánh mất ý nghĩa ban đầu, trở thành một nơi nhếch nhác, hỗn loạn để “buôn thánh bán thần”, kiếm chác lợi nhuận…




Sự phong phú của lễ hội Việt Nam

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2015

THỰC TRẠNG DU LỊCH ĐỀN CHÙA Ở HÀ NỘI MỞ RỘNG


Lễ hội ở nước ta thật đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế… Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân.


Bởi phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có công với nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò vui chơi ở lễ hội thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: thi bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc) v.v…ở các lễ hội của bà con dân tộc Tây Nguyên, lễ hội đâm trâu được coi như tiêu biểu nhất. Trong lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm trâu hiến tế hấp dẫn, ly kỳ còn có trò múa khiên, ném lao, đấu gậy.


 




THỰC TRẠNG DU LỊCH ĐỀN CHÙA Ở HÀ NỘI MỞ RỘNG

Thứ Tư, 7 tháng 1, 2015

Khái niệm khách sạn và kinh doanh khách sạn


        Khách sạn là cơ sở lưu trú đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và tiện nghi cần thiết phục vụ khách du lịch lưu trú, đáp ứng yêu cầu của khách về nghi ngơi, ăn uống vui chơi, giải trí và các dịch vụ khác.


Kinh doanh khách sạn được hiểu là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng nhu cầu ăn nghỉ và giải trí của họ tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi.


* Đặc điểm kinh doanh của ngành kinh doanh khách sạn.


Ngành kinh doanh khách sạn có những đặc điểm sau:


  • Kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch của điểm đến du lịch:

Tài nguyên du lịch là yếu tố thúc đẩy, thôi thúc con người đi du lịch, giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch quyết định thứ hạng của khách sạn.


  • Kinh doanh khách sạn đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn:

Cơ sở vật chất kĩ thuật của khách sạn đòi hỏi phải có chất lượng cao tùy thuộc vào thứ hạng của khách sạn. Sự sang trọng của các trang thiết bị bên trong khách sạn là nguyên nhân dẫn đến chi phí đầu tư ban đầu của khách sạn là lớn.


  • Kinh doanh khách sạn đòi hỏi lượng lao động trực tiếp tương đối lớn

Sản phẩm của khách sạn chủ yếu mang tính phục vụ và không thể cơ giới hóa được. Mặt khác lao động trong khách sạn có tính chuyên môn hóa cao, thường xuyên phảitiếp xúc với khách du lịch nên khách sạn cần phải sử dụng một số lượng lớn lao động trực tiếp.


  • Kinh doanh khách sạn mang tính quy luật

Kinh doanh khách sạn chịu sự tác động của một số quy luật như: Quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế – xã hội, quy luật tâm lí con người,…Đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên, sự thay đổi của khí hậu trong năm tạo ra tính thời vụ của du lịch từ đó tạo ra sự thay đổi theo mùa kinh doanh của khách sạn.


        Từ những đặc điểm trên của kinh doanh khách sạn, việc tạo ra một sản phẩm có chất lượng để thoả mãn nhu cầu khách du lịch không chỉ phụ thuộc vào nguồn vốn và lao động mà còn phụ thuộc vào năng lực của nhà quản lí trong quá trình vận hành kinh doanh của doanh nghiệp.




Khái niệm khách sạn và kinh doanh khách sạn

Thứ Sáu, 2 tháng 1, 2015

Ý nghĩa của từ hội trong lễ hội


Hội’’ là đám vui đông người gồm hai đặc điểm là đông người, tập trung trong một địa điểm và vui chơi với nhau. Nhưng nếu chỉ có vậy nhiều khi chưa thành “hội” phải bao gồm các yếu tố sau đây mới đủ ý nghĩa của nó: (1) “hộiphải được tổ chưc nhân dịp kỷ niệm một sự kiện quan trọng nào đó liên quan đến bản làng, cộng đồng dân tộc, (2) “hội” đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng. “Hộicó nhiềutrò vui náo nhiệt như câu ca dao đã từng ví “vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội”. Đây là sự cộng cảm cần thiết của phương diện tâm lý sau những ngày thánglaođộng vất vả với những khó khăn trong cuôc sống hàng ngày mà ai cũng phải trải qua. Đến với “hội” mọi người sẽ được giải toả thăng bằng trở lại.


Như vậy,khái niệm “hội” được tập trung lại như sau: “Hội” là sinh hoạt văn hoá tôn giáo nghệ thuật của cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sựbình yên cho từng cá nhân hạnhphúc cho từng dòng họ, từng gia đình. Sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bộithucủa những mùa màng mà bao đời nay đã quy tụ vào niềm mơ ước chung với 4 chữ “Nhân – Khang – Vật – Thịnh”.


Mối quan hệ giữa “lễ” và “hội”


Qua các lễ hội truyền thống ViệtNamta có thể rút ra được mối quan hệ khăng khít giữa lễ và hội. Trong thưc tế, giữa lễ và hội có mối quan hệ khó tách rời, chúng luôn hoà quyện với nhau. Nếu chỉ có hội mà không có lễ thì mất vẻ cung kính trang nghiêm và ngược lại nếu chỉ có lễ mà không có hội thì không còn vui nữa. Vì vậy, mối quan hệ giữa lễ và hội là không thể tách rời, chúng hoà quyện đan xen vào nhau.


Trên cơ sở ấy chúng ta nhận thấy rằng người nông dân ViêtNamđã sáng tạo lễ hội như cuộc sống thứ hai của mình, đó là cuộc sống hội hè đình đám sống động đậm màu sắc dân gian. Phần cuộc sống đó thuộc về những ước mơ, những khát vọng hướng tới cái Chân – Thiện – Mỹ. Ở đó cái đẹp của cuộc sống thực được bộc lộ hết mình trong sự hoà hợp giữa con người với tự nhiên, sự ngưỡng mộ, tri âm với các lực lượng thần thánh siêu nhiên đã có công xây dựng và bảo vệ làng bản. Vì thế lễ hội mang tính nhân văn sâu sắc đem lại niềm hy vọng cho con người, mà con người thì không bao giờ lại không cần thiết tin và hy vọng.


Như vậy, chúng ta thấy lễ và hội có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau. Chúng luôn song hành và cùng tồn tại với nhau. Ở đâu có lễ thì ở đó có hội và ngược lại.




Ý nghĩa của từ hội trong lễ hội

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015

Cá rô nấu miến


Cá rô nấu miến ăn vào bữa điểm tâm thật hấp dẫn. Món ăn này gần gũi với đồng quê, nhưng cũng thích hợp khi bạn muốn “chiêu đãi” bạn bè.


Nguyên liệu:


- Cá rô: 200 g


- Miến: 150 g.


- 2-3 tai mộc nhĩ, 1 thìa dầu ăn, 1 nhánh gừng, hành hoa, rau răm, mỗi thứ 2-3 cây. Nước mắm, muối, hạt tiêu, mì chính đủ nấu.


Cách làm


Chọn cá rô to (độ 3-4 con) còn tươi sống, đánh hết vảy, cắt bỏ mang và vây, mổ ruột rắc muối, cạo rửa sạch. Bỏ cá vào xoong với 1,5 lít nước, cho muối và gừng đập giập, luộc chín vớt ra gỡ lấy nạc cá, ướp mắm, hạt tiêu và gừng băm nhỏ. Xương cá giã nát, đổ nước luộc, khuấy đều lọc gạn bỏxương.


Mộc nhĩ ngâm rửa sạch thái chỉ. Hành hoa, rau răm nhặt rửa sạch thái nhỏ, để riêng gốc hành.


Miến rửa sạch cắt đoạn từ 8 đến 10 cm để ráo không ngâm, phi thơm gốc hành với dầu, đổ cá vào đảo cho ngấm gia vị.


Đun sôi nước luộc cá, mếm đủ gia vị vừa ăn, cho mộc nhĩ nấu chín thì bỏ miến vào nấu sôi lại, nêm mì chính, cuối cùng cho cá đã xào vào cùng với hành răm là được. Múc ra ngay ra bát để cho miến không bịnát. Ăn nóng.


Yêu cầu: Cá không nát, nguyên miếng. Miến chín tới không nát. Dậymùi cá và hành răm, không tanh.


Lượng nước nhiều như canh. Ngọt đậm đà, vừa ăn.




Cá rô nấu miến