Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

Quản lý môi trường tài nguyên Phú Quốc


Tuyên truyền giáo dục người dân ý thức BVMT ven biển đặc biệt là ý thức về sự phát triển bền vững, Ngăn chặn việc thải rác bừa bãi xuống biển.


Nâng cao nhận thức người dân về công nghệ đánh bắt và nuôi trồng hải sản vùng biển và ven biển đặc biệt là ý thức không sử dụng các phương tiện đánh bắt hải sản gây huỷ hoại đến hệ sinh thái như chất nổ, xung điện, thuốc hoá học.


Quy hoạch các khu NTTS vùng ven biển, quan tâm xử lý ô nhiễm ở các vùng thâm canh thủy sản . ứng dụng các nguồn năng lượng mới phục vụ sấy khô hải sản.


Cải tạo và phục hồi hệ sinh thái ven biển tại một số khu vực trọng điểm.




Quản lý môi trường tài nguyên Phú Quốc

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

Dự báo xu hướng của vấn đề môi trường do tác động của thành phần dự án du lịch


-Xu hướng suy giảm chất lượng đất


Áp lực phát triển kinh tế – xã hội sẽ tác động tiêu cực trước hết lênviệcsử dụng đất và chất lượng môi trường đất, trong đó đất nông nghiệp liên tục có xu hướng giảm mạnh qua các thời kỳ phát triển do được chuyển đổi sang đấtphi nông nghiệp(phát triển giao thông, công nghiệp, các công trình công cộng…) dưới áp lực mạnh mẽ của quá trìnhcông nghiệp hóađô thị hóa.


Suy giảm chất lượng đất là điều khó tránh khỏi, do nhiễm phèn, mặn bởi tình trạng mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản. Diện tích đất nông nghiệp bị giới hạn và được chuyển sang mở rộng các đô thị và vệ tinh đô thị, phát triển các khu, cụm công nghiệp, phần diện tích chuyển đổi này sẽ bị nhiễm bẩn và không có giá trị cho sản xuất nông nghiệp do nhiễm kim loại nặng, các hóa chất độc hại từ đô thị, chất thải công nghiệp.


-Xu hướng suy giảm chất lượng nước mặt


Quá trình phát triển đô thị hóa, công nghiệp hóa đảo Phú Quốc trong thời gian tới gây ra nhiều áp lực cho môi trường nước mặt tỉnh, quy hoạch dự án sẽ làm tăng hàm lượng BOD, COD, SS, vi sinh tại các đô thị, khu dân cư: Dương Đông , Khu đô thị cảng An Thới, khu đô thị khoa học, gây ra nhiều khó khăn cho việc dùng nguồn nước này cho mục đích sinh hoạt và sản xuất.


Quy hoạch thủy lợi làm cho hệ thống tiêu thoát nước nội đồng trong tỉnh thông thoáng và thuận lợi hơn cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt. Tuy nhiên, giai đoạn xây dựng sẽ làm tăng hàm lượng Fe, Mn trong môi trường nước mặt các kênh rạch, gây ảnh hưởng đến đời sống thủy sinh và các hệ sinh thái trong các thủy vực.




Dự báo xu hướng của vấn đề môi trường do tác động của thành phần dự án du lịch

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

Khai thác tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản ở Phú Quốc


Phát triển kinh tế nói chung đòi hỏi quá trình khai thác tài nguyên ngày càng nhiều, quy hoạch khai thác ngành tài nguyên vớicác đối tượng chịu tác động.


Tác động của quá trình khai thác tài nguyên gây áp lực đến các vấn đề môi trường chính như sau:


  • Áp lực từ việc sử dụng tài nguyên nước

Nguồn nước mặt chủ yếu ở Phú Quốc là do nước mưa và nước mặt của sông Hậu cung cấp.


Hiện nay tại đảo có một nhà máy cung cấp nước sạch với công suất5.000 m3/ngày/đêm. Nước sạch đã đáp ứng được 81,78% nhu cầu sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong tỉnh.


Đến năm 2020 chỉ tính riêng nhu cầu cấp nước sạch cho sinh hoạt và hoạt động công nghiệp của tỉnh sẽ tăng gấp khoảng 6 lần so với năm 2008 để phục vụ cho các nhu cầu công nghiệp hóa và đô thị hóa.





























Ngành và lĩnh vực hoạt động



Nhu cầu cấp nước sạch ( m3/ngày.đêm)



2008



2015



2020



Nước cấp sinh hoạt, trong đó:



6.740,64



22.545,6



39.636,48



- Đô thị



3.000



18.000



36.000



- Nông thôn



3.740,64



4.545,6



3.636,48



Sản xuất công nghiệp



800



2.800



6.000



Tổng



7.540,64



25.345,6



45.636,48



 


Theo quy hoạch đến năm 2015 đảo Phú Quốc xây dựng nhà máy nước Dương Đông 10.000 m3/ngày vàXây dựng hồ Suối Lớn cho nhu cầu phát triển phía Nam đảo Phú Quốc


Đến năm 2008,chỉ số cấp nước sạch bình quân đầu người là90lít/người/ngày.đêm và theodự kiếnđến năm 2015sẽ là135lít/người/ngày.đêm và đến năm 2020 sẽ là145lít/ người/ngày.đêm. Điều này cho thấy áp lực rất lớn về khai thác và sử dụng tài nguyên nước mặt cho các nhu cầu đô thị, công nghiệp, dịch vụ và khu vực nông thôn, cũng như cho các hoạt động thuỷ lợi, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp củađảo.




Khai thác tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản ở Phú Quốc

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2014

Vấn đề suy thoái môi trường biển khi làm du lịch ở đảo Phú Quốc


Theo quy hoạch phát triển, đảo Phú Quốc có tổng cộng 6 bến cảng đường biển, chiếm diện tích 130 ha vào năm 2010 và tăng lên 260 ha vào năm 2020. Sự gia tăng các cảng biển đồng nghĩa với sự gia tăng lượng tàu bè giao thông và neo đậu tại các khu vực ven vùng biển Phú Quốc nói riêng và tỉnh Kiên Giang nói chung. Việc phát triển hệ thống cảng biển và gia tăng lượng tàu thuyền trong tương lai đồng nghĩa với việc gia tăng lượng chất ô nhiễm vào môi trường. Đồng thời, với số lượng vận chuyển nhiều của tàu bè sẽ làm gia tăng nguy cơ xảy ra các vụ tai nạn trên biển khi đó một lượng lớn dầu sẽ tràn ra môi trường xung quanh gây ô nhiễm môi trường và biến đổi các hệ sinh thái.


Sự phát triển nuôi trồng thủy sản ngày càng gia tăng sẽ dẫn đến tình trạng chất lượng nước biển ven bờ bị suy giảm đáng kể do sự thay đổi trạng thái tự nhiên của dòng chảy, gia tăng chất hữu cơ gây ô nhiễm nguồn nước.


Vấn đề suy giảm đa dạng sinh học, các nguồn lợi thủy sản


Mùa khô kéo dài là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho kiểm soát việc phòng chống cháy rừng đặc biệt là vườn quốc gia Phú Quốc., sự mất rừng do nuôi trồng thủy sản.


Phú Quốc là một trung tâm du lịch sinh thái biển chất lượng cao. Theo kế hoạch phát triển năm 2010 và định hướng đến năm 2020, số khách du lịch sẽ đạt đến 2 – 3 triệu lượt người/năm thì việc thăm và lặn để quan sát rạn san hô là một trong những nhu cầu của khách du lịch sinh thái và các sản phẩm quà lưu niệm từ san hô cũng sẽ gia tăng đáng kể. Mặt khác các dịch vụ phục vụ cho khách du lịch cũng sẽ tăng theo. Khi số khách du lịch lặn biển tăng cùng với việc khai thác thủy hải sản cũng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu bằng những phương tiện hủy diệt như dùng thuốc nổ, lưới vét, chất độc hóa học sẽ là nguy cơ lớn đến sự biến đổi diện tích và làm tổn thương đến rạn san hô. Tác động này không những gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành thủy sản kể cả du lịch sinh thái, mà còn gây ra những ảnh hưởng đáng kể với cộng đồng dân cư đã từng dựa vào nguồn tài nguyên biển để sinh kế, làm giảm đa dạng hệ sinh thái và đa dạng loài của khu vực, chẳng hạn sản lượng tôm, cá sẽ giảm, số lượng rùa biển cũng sẽ giảm sút nghiêm trọng.




Vấn đề suy thoái môi trường biển khi làm du lịch ở đảo Phú Quốc

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Nâng cao chất lượng nhân sự quản lý trong ngành du lịch cần những gì?

Muốn làm được như vậy thì cần nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành du lịch với cơ cấu nhân lực phù hợp. Thực hiện phương châm Nhà nước, doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch. Thí điểm mô hình dạy nghề có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp. Coi trọng và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực du lịch.


Có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút nhân tài, chuyên gia, nghệ nhân tham gia vào việc phát triển du lịch của đất nước.


Ngoài các giải pháp thì chúng ta còn phải đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển du lịch; chú trọng đúng mức việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin du lịch. Xây lập hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành du lịch đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh du lịch. Tăng cường hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học trong và ngoài nước để tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch quốc tế để áp dụng cho du lịch Việt Nam.


Bên cạnh đó, chủ động tham gia hợp tác song phương, đa phương, khai thác tốt quyền lợi hội viên và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Tăng cường hơn nữa các điều kiện để hội nhập du lịch ở mức cao, trước hết là tăng cường các điều kiện để khai thác những yếu tố về du lịch trong việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và các hiệp định Việt Nam đã ký khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).


Hướng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện cam kết quốc tế trong du lịch nói riêng và trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, tăng thị phần trên thị trường truyền thống và khai thông, nâng dần vị thế trên thị trường mới. 



Nâng cao chất lượng nhân sự quản lý trong ngành du lịch cần những gì?

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2014

Du lịch sinh thái Kiên Giang đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội P1

Mở rộng quan hệ kinh tế trong và ngoài nước


Phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng đã tạo điều kiện cho tỉnh Kiên Giang mở rộng kinh tế ra bên ngoài. Tỉnh Kiên Giang có vị trí thuận lợi trong giao lưu kinh tế trong nước và quốc tế bằng đường biển, đường bộ và đường hàng không, mở được nhiều tuyến du lịch sang các nước như Campuchia, Thái lan. Tuyến du lịch "Con đường vịnh Thái lan" trên biển và đường bộ ven biển đây là tuyến du lịch liên quốc gia giữa tỉnh Kiên Giang – Campuchia – Thái lan, sẻ tạo điều kiện để Kiên Giang phát triển kinh tế quốc tế. Ngoài ra, Kiên Giang có đường biên giới dài giáp với Campuchia; có cửa khẩu quốc tế Xà xía, thuận lợi cho giao lưu và phát triển kinh tế du lịch và kinh tế quốc tế. Lượng khách du lịch quốc tế đến và lưu trú tại Kiên Giang tăng lên hàng năm chủ yếu là các nước có nền kinh tế phát triển. Đây là những nước có thị trường rộng lớn để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế; xuất, nhập khẩu một lượng hàng hóa lớn phục vụ cho nhu cầu phát triển. Thông qua khách du lịch quốc tế tỉnh Kiên Giang có điều kiện quảng bá sản phẩm hàng hóa nông, lâm, thủy sản, hàng công nghiệp đến thị trường quốc tế và có điều kiện mở rộng thị trường, ký các hợp đồng xuất khẩu hàng hóa có giá trị lớn. Đồng thời, có điều kiện thuận lợi kêu gọi đầu tư trên nhiều lĩnh vực. Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là: 215.606.000 USD đến năm 2007 là 266.000.000USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính gồm: gạo, tôm đông, mực đông, cá đông, cá cơm sấy, hải sản khô, nước mắm, hồ tiêu, hải sản tươi… Đặc biệt, đã mở rộng quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới. Các thị trường xuất khẩu tương đối ổn định có giá trị kim ngạch cao như Nhật Bản, Nam Phicác thị trường có xu hướng tăng nhanh như: Mỹ, Singapore, Đài Loan, Malaysia Phát triển DLST, đã thực sự tạo ra thị trường to lớn cho tỉnh Kiên Giang xuất khẩu hàng hóa dịch vụ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tạo ra nhiều lợi thế trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. Từ đó góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội.



Du lịch sinh thái Kiên Giang đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội P1

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2014

Nam Phố muôn đời kể chuyện tình

       Ở Hà Tiên, có một địa danh gần như ít người nhớ tên là Nam Phố, với người dân Kiên Giang thì Nam Phố như một con người nặng lòng, ngân nga kể chuyện tình bao đời nay. Nơi đây bãi biển được bao bọc bởi những dãy núi nên mặt biển luôn phẳng lặng, chỉ có những con sóng lăn tăn. Khi thủy triều xuống, một bờ cát chạy dài ra biển hơn một cây số. Hoàng hôn là khoảnh khắc đẹp nhất của Nam Phố…


Yên ả và thanh bình nơi Nam Phố
Yên ả và thanh bình nơi Nam Phố


       Được bao bọc bởi những dãy núi và nhiều đảo từ Hòn Chông đến mũi Kim Dự, biển Nam Phố dịu dàng như nàng con gái mỹ miều. Quanh năm, sóng biển chỉ là những đợt lăn tăn, không ồn ào như các vùng biển khác. Người đi biển bảo rằng, đây là vùng biển lành, không đá ngầm, không có vùng nước xoáy. Có những lúc mặt biển phẳng lặng đến mức người ta cứ ngỡ là mặt hồ giữa mùa thu yên ả. Từ xa xưa, nhiều người đã định cư tại đây và sống bằng nghề biển hình thành một xóm biển lâu đời bên cạnh một thương cảng quốc tế tại Hà Tiên cách đây gần ba thế kỷ. Theo thời gian, địa danh Nam Phố không còn được nhắc đến như Mũi Nai, Thạch Động, Kim Dự, Đông Hồ… nên dần dần người ta quên đi địa danh lãng mạn và xinh đẹp này.


       Những đoàn du khách qua lại biển Nam Phố nhiều nhưng ít ai dừng lại dù có người tấm tắc khen biển đẹp và hiền hòa. Nhưng với những người yêu biển và nhất là những người “nghiện” cảnh hoàng hôn, Nam Phố là điểm dừng chân lý tưởng. Ở đây mỗi lúc thủy triều lên, mặt biển tràn vào bờ, chỉ chừa lại một dải đất nhỏ men theo tận chân quốc lộ 80. Thủy triều xuống, nước rút ra xa vài trăm mét, có khi hơn một cây số, để lại một bờ biển chạy dài loang loáng một màu vàng óng ả của cát biển nhuộm phù sa. Nơi đây còn giữ nguyên những gì của thiên nhiên hoang dã. Cây cối mọc xanh tươi, tự nhiên. Những hàng dừa cao vút hàng chục năm tuổi như những mái tóc dài xõa xuống bờ biển xinh đẹp. Không biết đã có bao nhiêu bức ảnh đẹp được ghi lại từ biển Nam Phố này. Các tour du lịch gần như “bỏ trắng” điểm này vì không có dịch vụ du lịch nào để hỗ trợ khách. Du khách tự túc thỉnh thoảng có dừng chân lại để ghi vài bức ảnh rồi lại vội vã ra đi. Chỉ có số ít người hiểu rõ về nó, những người đi tìm vẻ đẹp của Nam Phố mới cất công đến đây và dừng chân rất lâu tại bãi biển này.


      Đến Nam Phố, nghe tiếng sóng rì rào mới  thấm được hết cái buồn, cái lãng mạn nơi biển vắng.


 



Nam Phố muôn đời kể chuyện tình